-->

Thứ Sáu, 23 tháng 8, 2013

Dịch lý nhập môn


..
LỤC NHÂM ĐẠI ĐỘN

LÝ HỌC ĐÔNG PHƯƠNG


Thực tình tôi không biết mình phải mở đầu như thế nào về việc này, nhưng nhiều bạn đã yêu cầu, nay tôi xin phép đề cập đến … Đã từ lâu, những đề tài nầy đã bị xỉ vả thậm tệ rất nhiều … nay tự bổng dưng “hồi sinh” và có rất nhiều người tham gia nghiên cứu, thậm chí còn in thành sách, trong đó vận dụng rất nhiều trong y học cổ truyền, xây dựng, định hướng kế hoạch làm ăn với với ngoại quốc (Hoa, Hàn, Nhựt…) v.v… và được cấp có thẩm quyền cấp phép in ấn phát hành!
Hôm nay tôi sẽ tuần tự post lên để các bạn nhận xét một số hiểu biết hạn hẹp của tôi, chủ yếu là giải trí, nhập môn giản lược dễ theo dõi./.

************************
Phần I: DỊCH LÝ

Trước năm 1916, đây là một phần của toàn bộ giáo khoa mà các sĩ tử phải học chuẩn bị cho các kỳ thi do quốc gia Nam triều tổ chức, vậy thì "dịch" là gì?
“Dịch” còn được đọc là “diệc ” có nghĩa là “công việc, sự việc”. Tương truyền thời đại thượng cổ, các nhà nghiên cứu biến đổi dần dần từ Hà Đồ, Lạc Thư thành hệ thống thư truyền và soạn thành một bộ sách gọi là kinh dịch.
Các học giả như Châu Hy, Khổng Tử, Gia Cát Lượng, Trần Đoàn, Châu Bá Ôn… đều thừa nhận mình chỉ là “soạn giả” vì các dữ liệu nầy đã có sẵn từ hàng ngàn năm trước do các “Thánh Hiền” truyền đạt! Sau đây chúng ta thử tìm hiểu vấn đề này và các thuật ngữ dùng để diễn giải.
A- Tiên thiên:
I- Dương và Âm:
1/- Dương: ký hiệu: _______ là một vạch thẳng, ý nghĩa: lớn, cứng, mạnh, thống nhất, hào dương, lão dương, vật dương…..
2/- Âm : ký hiệu : ___ ___ gồm hai vạch thẳng, ý nghĩa: nhỏ, mềm, yếu, bể đôi, hào âm, lão âm, vật âm……
* Dương và âm giao nhau sinh ra vạn vật.
Càn (thiên) : gồm ba vạch liền song song (đều là hào dương)
Đoài (trạch): gồm 3 vạch song song, vạch trên cùng bị đứt
Ly (hỏa): gồm 3 vạch song song , vạch thứ hai ( hào nhị) bị đứt ( hào âm)
Chấn (lôi) : tương tự; hào 2,3 là hào âm
Tốn (phong): tương tự , hào sơ âm
Khảm (thủy): tương tự; hào sơ, hào tam âm
Cấn (sơn): tương tự; hào sơ, hào nhị âm
Khôn (địa): tương tự; ba hào đều âm
* Cách đọc để nhớ: "Càn vi Thiên, Đoài vi Trạch v.v…..".Trong đó chữ thứ nhất là tên quẻ, chữ thứ ba là tượng hình của quẻ.
II- Các loại quẻ (quái):
1/Quẻ đơn: gồm 8 quẻ (bát quái), mỗi quẻ có ba hào (hào là các vạch liền-hào dương; hoặc đứt giữa-hào âm), thứ tự đếm từ dưới lên.
Tên các quẻ thứ tự theo tiên thiên : Càn, đoài, Ly, Chấn, Tốn, khảm, Cấn, Khôn.
2/Quả kép: gồm 64 quẻ , mỗi quẻ gồm hai quẻ đơn chồng lên nhau, nếu hai quẻ chồng lên giống nhau gọi là trùng quái (quẻ thuần).
Quẻ nằm dưới gọi là nội quái, có 3 hào gồm: sơ, nhị, tam. Quẻ nằm trên gọi là ngoại quái cũng có 3 hào là tứ, ngủ, lục.
III- Đại ý các quẻ:
Mỗi quẻ gồm 6 hào, đếm từ dưới lên trên, mỗi hào là một ý nghĩa sự việc của triều chính, của đức tính người quân tử - hay tiểu nhân, dùng để đối nhân xử thế hoặc lập kế hoạch cho nhà nước các vương triều, do Thoán viết và Chu Hy chú giải, sau đó Đức Khổng Tử san định lại, riêng bài này chỉ là toát yếu nên soạn giả lập lại trình tự có khác đôi chút để cho các bạn dễ theo dõi và học thuộc lòng tên các quẻ.
1- Bát thuần khôn: thuận lợi, đi phía Tây Nam gặp bạn, đi phía Đông Bắc mất bạn, điều tốt.
2- Bát thuần càn: cứng, tốt, mạnh mẻ, đầy đủ, thông suốt, có lợi, trong sạch.
3- Bát thuần ly: sáng, đẹp, lệ thuộc, hanh thông, nuôi trâu cái thì tốt.
4- Bát thuần đoài: vui vẻ, hanh thông, chính thì có lợi.
5- Bát thuần tốn: vào, thuận, hanh thông, ra mắt đại nhân thì có lợi.
6- Bát thuần khảm: Kềm hảm, hiểm trở, nhưng không mất lòng tin.
7- Bát thuần chấn: chấn động, sấm nổ thời hanh thông.
8- Bát thuần cấn: ngăn cản cái đáng ngăn, ngăn cản đúng chỗ.
*Trên là tám quẻ thượng và hạ quái giống nhau. Còn lại ta đọc tượng hình quái trên (ngoại) rồi tượng hình quái dưới (nội), sau đó là tên.
9- Địa phong thăng: tiến lên, hanh thông, ra mắt đại nhân đừng lo, đi về hướng Nam có lợi.
10- Địa lôi phục: phục hồi, trở lại, bảy ngày trở lại, tiến tới thì lợi.
11- Địa trạch lâm: lâm vào, tìm nhau, hanh thông, chính thì lợi.
12- Địa thiên thái: thông thái, bỏ nhỏ lấy lớn, tốt, hanh thông.
13- Địa hoả minh di: bị thương, ánh sáng bị tổn hại, chịu gian nan.
14- Địa thuỷ sư: nhiều, dân lính đông đảo, lấy lòng nhiều người thì lợi.
15- Địa sơn khiêm: khiêm nhượng, nhúng nhường thì hanh thông, quân tử trọn vẹn.
16- Thiên phong cấu: gặp gở, cấu kết, con gái mạnh hơn chớ hỏi cưới.
17- Thiên sơn độn: lui ẩn, trốn đi thì hanh thông, tiểu nhân đắc chí.
18- Thiên địa bỉ: bế tắt, không hợp thời, quân tử bất lợi, lớn đi nhỏ lại.
19- Thiên thuỷ tụng: bàn luận, kiện cáo, ra mắt đại nhân có lợi, vượt sông lớn bất lợi.
20- Thiên hoả đồng nhân: thân thiện, cùng ở với người, quân tử lợi, vượt sông lớn lợi.
21- Thiên lôi vô vọng: không càn bậy thì tốt, lợi ở sự chính, tiến đi bất lợi.
22- Thiên trạch lý: lễ phép, từ mềm đến cứng, đạp đuôi hổ chẳng sao, hanh thông.
23- Hoả trạch khuê: ở ngoài, trái với khác nhau, ở việc nhỏ thì tốt.
24- Hoả lôi phệ hạp: ăn, cắn được hanh thông, cắn để trừng phạt thì tốt.
25- Hoả sơn lữ: lữ khách, đi xa nhà chính đáng thì tốt.
26- Hoả phong đỉnh: cái lư, cái đỉnh, cái vạc nấuu tốt đẹp.
27- Hoả thuỷ vị tế: không hợp, mất, chưa xong, bất lợi.
28- Hoả địa tấn: tiến, ban ngày được tiếp ba lần, khanh hầu dùng ngựa nhiều.
29- Hoả thiên đại hữu: nhiều người, có lớn thì hanh thông.
30- Thuỷ trạch tiết: tiết giảm chừng mực, dè dặt khổ sở không lấy làm bền được.
31- Thuỷ lôi truân: truân chuyên hiểm trở, dựng tước hầu thì có lợi.
32- Thuỷ hoả ký tế: hợp nhau, đã định rồi, đã xong rồi.
33- Thuỷ sơn kiển: tai nạn, què, chột, lợi ở Tây Nam, bất lợi ở Đông Bắc.
34- Thuỷ phong tỉnh: giếng nước, đổi nhà (ấp) không đổi giếng.
35- Thuỷ thiên nhu: nhu cầu, thuận, chờ đợi, tiến qua sông lớn thì lợi.
36- Thuỷ địa tỵ: thân mật, gần gủi tốt, đoán lần thứ nhì giống như lần trước.
37- Thuỷ trạch khổn: gian nan, khốn cùng, có nói chẳng tin.
38- Trạch địa tụy: tụ họp hanh thông, vua đến nhà miếu, ra mắt đại nhân được lợi.
39- Trạch sơn hàm: mau chóng, cảm xúc, hàm chứa, giao cảm, lấy con gái thì tốt.
40- Trạch phong đại quá: nhiều quá, lớn đến nổi cái cột cong lại, tiến thì lợi, hanh thông.
41- Trạch lôi tuỳ: thuận theo, theo nhau mà hanh thông, ở điều chính có lợi.
42- Trạch thiên quải: quả quyết, có lòng thành kêu gọi mọi người.
43- Trạch hoả cách: cải cách, thay đổi, lúc đầu chưa ai tin, lúc sau mới tin.
44- Phong thiên tiểu súc: ít quá, chứa ít thì hanh thông, mây kín không mưa, dời đô về Tây.
45- Phong hoả gia nhân: ở trong, người nhà, như con gái trinh chính thì lợi.
46- Phong thuỷ hoán: ngừng lại, lìa xa, vua đến nhà miếu vượt qua sông thì lợi.
47- Phong địa quan: quan sát, đi cùng với lòng tinkhông vụ lợi, đáng kính.
48- Phong trạch trung phu: tin cậy, thông cảm được mọi vạn vật, qua được hiểm nghèo.
49- Phong sơn tiệm: tiến đến dần dần, con gái về nhà chồng thì tốt.
50- Phong lôi ích: ích lợi, tiến qua sông lớn thì lợi.
51- Lôi địa dự: vui vẻ, sáng, dựng tước hầu ra quân thì lợi.
52- Lôi thuỷ giải: tiêu tán, gải tán, cởi mở, trở về cái cũ, đi sớm về sớm thì tốt.
53- Lôi phong hằng: hằng còn, không đổi, thường lâu thì có lợi.
54- Lôi sơn tiểu quá: ít quá, làm việc nhỏ thì tốt, việc lớn thất bại.
55- Lôi trạch quy muội: cô em bé khập khểnh về nhà chồng, tiến đi thì xấu, bất lợi.
56- Lôi hoả phong: nhiều, thịnh vượng,, vương triều cục thịnh, trung hiếu vẹn toàn.
57- Lôi thiên đại tráng: chí khí lớn, mạnh, chính thì tốt.
58- Sơn hoả bí: trang sức thì hanh thông, nên tiến nhiều được chút lợi.
59- Sơn thiên đại súc: tụ nhiều, chứa nhiều, vượt qua sông lớn thì lợi.
60- Sơn trạch tổn: hao tốn, rút bớt, rút của dân phụng sự cho vua.
61- Sơn lôi di: nuôi dưỡng điều chính thì tốt, xem cách nuôi để tự nuôi mình.
62- Sơn phong cổ: có sự việc, đổ nát rồi có việc mới tốt, vượt sông lớn có lợi, trước sau ba ngày.
63- Sơn thuỷ mông: mê muội, mờ mịt, non trẻ ngây thơ thì hanh thông.
64- Sơn địa bác: bài bác, mục nát, vở lẽ, tiến đi thì không lợi..
B- Hậu thiên:
Do dùng nghĩa tiên thiên khi lập các kế hoạch quá khó vì nhuộm đầy triết học nho gia, giới bình dân tìm cách diễn giải dễ hiểu hơn và được đa số công chúng Trung Hoa công nhận và tán thành, ý nghĩa hậu thiên ra đời khoảng cuối thời mạt Đường sang sơ Tống, thứ tự của bát quái có sự thay đổi vị trí như sau : Càn, Khảm, Cấn, Chấn , Tốn, Ly , Khôn, Đoài. Điều thú vị là gán ngũ hành sinh khắc và an vào các quẻ một số thuộc tính gọi là “sao” dùng để đoán vận hạn tuổi tác cho một nhân vật nào đó.
Tiên thiên và hậu thiên không có sự khác biệt, nó giống như nhau, tiên thiên được ví như đi quan sát từ nhà trên xuống nhà dưới, hậu thiên quan sát từ nhà dưới đi lên nhà trên, thực tế chỉ có một cái nhà là kinh dịch.
Trong bài viết nầy chủ yếu để các bạn giải trí, không hề có hàm ý mời các bạn xem để… tham khảo và hành nghề “toán số”.
PHẦN II:Ngũ hành- động hào- âm dương và can chi

Theo tây phương vật chất gồm có tứ đại là: đất, nước, lửa, không khí. Bốn yếu tố nầy giao nhau tuỳ theo tỷ lệ phần trăm nào đó thành ra các nguyên tố… nhưng riêng ngủ hành thì chưa có sách nào đề cập là ngủ hành cần bao nhiêu phần trăm để tạo thành vật chất, chỉ có đông dược thì có khả năng biết loại nào vị nào, bao nhiêu cân lượng…
I- Ngũ hành: Như đã biết: thuỷ sinh mộc, mộc sinh hoả, hoả sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thuỷ… đây là sinh theo chiều thuận hay còn gọi là sinh “xuất”, nếu ngược lại là sinh “nhập” . Trường hợp khắc cũng thế, có khắc xuất và khắc nhập :
* Các thuật ngữ:
-Sinh nhập giống như người nuôi ta gọi là Vượng, Tướng (hoặc cùng hành).
-Sinh xuất giống như ta nuôi người gọi là Hưu
-Khắc nhập giống như người giết ta gọi là Tử
-Khắc xuất giống như ta giết người gọi là Tù

Bảng 1: ngũ hành kết hợp với can chi và 8 quẻ:


Hành
KIM
THUỶ
MỘC
HOẢ
THỔ
CHI
Thân
Dậu
Hợi
Dần
Mão
Tỵ
Ngọ
Thìn Tuất
Sửu Mùi
CAN
Canh
Tân
Nhâm
Quý
Giáp
Ất
Bính
Đinh
Mậu
Kỷ
BÁT
QUÁI
Càn
Đoài
Khảm
Chấn
Tốn
Ly
Cấn
Khôn



II- Động hào: Trong kinh dịch viết : “Cùng tắc biến, biến tắc thông”, nên trong quẻ tiên thiên khi tiên liệu kết quả thì chỉ có 1 hào động; có nghĩa là chỉ có một hào dương biến thành hào âm hoặc ngược lại. Lúc này quẻ sẽ thay đổi thành quẻ biến kèm theo quái nghĩa thay đổi theo, hoặc nói cách khác là tình huống sẽ xảy ra cách nào đó và đạt hiệu quả (kinh tế) sau khi kế hoạch thực hiện được sau một thời gian.
Trong hậu thiên thì có từ 1 đến 6 hào sẽ động và quái nghĩa cũng thay đổi từ quẻ chính là nguyên nhân sẽ đạt kết quả ở quẻ biến. Cách tìm hào động thì ngoài các cụ thâm nho đọc được nguyên tác, riêng các bạn và tôi thì phải xem đáp án bằng phú nôm của các cụ Lê Quý Đôn, Huỳnh Kim, Phan Châu Trinh… đã tái bản nhiều lần.
III- Thiên can và địa chi: Để tính thời gian, người ta dùng 10 can ghép với 12 chi, mỗi chi là 1 giờ Đông Á ( bằng 02 tiếng đồng hồ ). Thí dụ : giờ Tí được tính từ 11 giờ khuya đến 01 giờ sáng, giờ Sửu từ 01 giờ sáng đếm 03 giờ sáng v.v....
*10 can gồm: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.
* 12 chi gồm: Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất Hợi.
Cách ghép: bắt đầu ghép Giáp với Tí, tương tự có Ất Sửu, Bính Dần….. đến Quý Hợi cả thảy được 60 vị, đến vị thứ 61 trở lại Giáp Tí tuần hoàn lần nữa.
Thật là thú vị vì bằng mắt thường người ta chỉ thấy được 5 hành tinh: Thuỷ tinh, Kim tinh, Hoả tinh, Thổ tinh, Mộc tinh. Trong đó Mộc tinh là hành tinh lớn nhất có chu kỳ 1 năm của hành tinh này gần bằng 60 năm của địa cầu, tương đương với một đời người của chúng ta!


IV- Địa bàn: Dưới cách nhìn của người cổ, mặt đất luôn cố định gọi là địa bàn, con người sống trên mặt đất nên bàn tay trái (để ngữa ra) cũng có địa bàn. An 12 chi vào bàn tay trái bắt đầu từ khớp động cuối ngón áp út ( giáp với lòng bàn tay) là cung Tí chuyển dần theo chiều kim đồng hồ (chiều thuận , thuận hành) đến cuối ngón trỏ là cung Dần, chuyển dọc lên theo các khớp và đầu các ngón tay, đến ngón út và chuyển xuống chân ngón út là cung Hợi. Như vậy ta rót vào mỗi cung một vị “Thần” tên là “Tí” đến “Hợi”. Thế là ta đã có địa bàn trong bàn tay rồi đấy! Khi tính toán, thường dùng ngón cái bấm vào các cung địa bàn để an các tính chất.

Vì thường bấm vào tay hay dễ lẫn, người ta ghi lại trên giấy cho dễ nhìn, cách trình bày tương tự như ở bàn tay trái, mỗi ô (cung) thường để rộng dùng an các sao vào:


Tỵ Ngọ Mùi 
Thân
Thìn  Dậu
Mão Tuất
Dần (+) Sửu
(-)
Tí (+) Hợi


- Cung dương : Tí, Dần, Thìn, Ngọ , Thân, Tuất,
- - Cung âm: Sửu, Mão, Tỵ, Mùi, Dậu, Hợi.
1/- Khắc, Xung: Nhìn vào hình trên, ta vẽ những đường thẳng qua tâm địa bàn xuyên qua các cung thì thấy rõ sự đối ứng của chúng. Đây là hai thần chi khắc nhau trực tiếp ( đối xung, chính xung), thành 6 cặp:
Tí khắc Ngọ ( thủy khắc hỏa)
Mão khắc Dậu ( mộc khắc kim)
Tương tự 4 cặp còn lại : Dần- Thân, Tỵ hợi, Thìn Tuất, Sửu Mùi.
* Khắc theo nhóm: Nếu lập nhóm 4 thần chi thì ta có 3 nhóm khắc nhau:
a/ Dần Thân Tỵ Hợi
b/ Thìn Tuất Sửu Mùi
c/ Tý Ngọ Mão Dậu
2/ Hợp:
a/ Nhị hợp: Nhìn vào trục đứng xuyên qua tâm địa bàn ta có 6 cặp nhị hợp
* Ngọ- Mùi
* Tỵ- Thân
* Thìn- Dậu
* Mão-Tuất
* Dần- Hợi
* Sửu- Tý
b/ Tam hợp: Ba thần chi hợp nhau thành 4 cặp tam hợp:
Thân- Tí - Thìn ( gọi là tam thủy vì Tí thuộc thủy)
Tỵ- Dậu - Sửu ( gọi là tam hợp kim vì Dậu thuộc kim)
Mão – Mùi – Hợi ( gọi là tam hợp thổ vì Mùi thuộc thổ)
3/ Hại: Nhìn vào địa bàn ta vẽ đường thẳng đứng xuyên qua các cung sẽ có 6 cặp hại nhau:
Thìn- Mão; Tỵ -Dần; Ngọ- Sửu; Mùi- Tí; Thân- Hợi; Dậu – Tuất.
-Tại sao hại nhau ? Thật là không ổn, nếu xét về ngủ hành thì chưa chắc đã hại nhau, Xin báo cáo với các bạn, điều này “Thánh” chưa phán nên các bạn tạm thời tự tìm câu giải đáp!
* Tướng và tiết: Một năm chia ra 12 tháng, mỗi tháng có 2 tiết khí, giữa hai tiết khí là trung khí, năm nhuận thì người ta thêm tháng nhuận vào tháng nào có trung khí kéo dài nhất. Theo kinh dịch và tử vi thì nguyệt kiến (tháng) đi thuận theo chiều kim đồng hồ. Thí dụ tháng giêng tại cung dần, thuận hành đến tháng chạp tại cung sửu. Trong lục nhâm thì “nguyệt tướng” (tướng tháng ) đi nghịch giống như chiều lượng giác (nghịch hành): Tháng giêng tướng Hợi (tại cung hợi) , nghịch hành đến tháng chạp là tướng Tí.

Bảng 2: Tướng và tiết:


Tháng
(âm lịch)
Nguyệt tướng
Tiết
Giêng
Hai
Ba
Năm
Sáu
Bảy
Tám
Chín
Mười
Mười một
Chạp
Hợi
Tuất
Dậu
Thân
Mùi
Ngọ
Tỵ
Thìn
Mão
Dần
Sửu
Lập xuân - Võ thuỷ
Kinh trập - Xuân phân
Thanh minh - Cốc vũ
Lập hạ - Tiểu mãn
Mang chủng - Hạ chí
Tiểu thử - Đại thử
Lập thu - Xử thử
Bạch lộ - Thu phân
Hàn lộ - Sương giáng
Lập đông - Tiểu tuyết
Đại tuyết - Đông chí
Tiểu hàn - Đại hàn



V- Thiên bàn: PHẦN  NẦY PHỨC TẠP... PHANTRAN SẼ  NÓI RÕ TRONG PHẦN LỤC NHÂM ĐẠI ĐỘN ./.



*******************************************************
*

     
    

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét