..
LỤC NHÂM ĐẠI ĐỘN
LÝ HỌC ĐÔNG PHƯƠNG
Thực tình tôi không biết mình phải mở đầu như thế nào về việc này,
nhưng nhiều bạn đã yêu cầu, nay tôi xin phép đề cập đến … Đã từ lâu, những đề
tài nầy đã bị xỉ vả thậm tệ rất nhiều … nay tự bổng dưng “hồi sinh” và có rất
nhiều người tham gia nghiên cứu, thậm chí còn in thành sách, trong đó vận dụng
rất nhiều trong y học cổ truyền, xây dựng, định hướng kế hoạch làm ăn với với
ngoại quốc (Hoa, Hàn, Nhựt…) v.v… và được cấp có thẩm quyền cấp phép in ấn phát
hành!
Hôm nay tôi sẽ tuần tự post lên để các bạn nhận xét một số hiểu
biết hạn hẹp của tôi, chủ yếu là giải trí, nhập môn giản lược dễ theo
dõi./.
************************
Phần I:
DỊCH
LÝ
Trước năm 1916, đây là một phần của toàn bộ giáo khoa mà
các sĩ tử phải học chuẩn bị cho các kỳ thi do quốc gia Nam triều
tổ chức, vậy thì "dịch" là gì?
“Dịch” còn được đọc là “diệc ” có nghĩa là “công việc, sự việc”.
Tương truyền thời đại thượng cổ, các nhà nghiên cứu biến đổi dần dần từ Hà Đồ,
Lạc Thư thành hệ thống thư truyền và soạn thành một bộ sách gọi là kinh dịch.
Các học giả như Châu Hy, Khổng Tử, Gia Cát Lượng, Trần Đoàn, Châu
Bá Ôn… đều thừa nhận mình chỉ là “soạn giả” vì các dữ liệu nầy đã có sẵn từ hàng
ngàn năm trước do các “Thánh Hiền” truyền đạt! Sau đây chúng ta thử
tìm hiểu vấn đề này và các thuật ngữ dùng để diễn giải.
A- Tiên thiên:
I- Dương và Âm:
1/- Dương: ký hiệu:
_______ là một vạch thẳng, ý
nghĩa: lớn, cứng, mạnh, thống nhất, hào dương, lão dương, vật
dương…..
2/- Âm : ký hiệu : ___ ___
gồm hai vạch thẳng, ý nghĩa: nhỏ, mềm, yếu, bể đôi, hào âm, lão
âm, vật âm……
* Dương và
âm giao nhau sinh ra vạn vật.
Càn (thiên) : gồm ba vạch liền song song (đều là hào
dương)
Đoài (trạch): gồm 3 vạch song song, vạch trên cùng bị
đứt
Ly (hỏa): gồm 3 vạch song song , vạch thứ hai ( hào nhị) bị đứt (
hào âm)
Chấn (lôi) : tương tự; hào 2,3 là hào âm
Tốn (phong): tương tự , hào sơ âm
Khảm (thủy): tương tự; hào sơ, hào tam âm
Cấn (sơn): tương tự; hào sơ, hào nhị âm
Khôn (địa): tương tự; ba hào đều âm
* Cách đọc để nhớ: "Càn vi Thiên, Đoài vi Trạch v.v…..".Trong đó
chữ thứ nhất là tên quẻ, chữ thứ ba là tượng hình của
quẻ.
II- Các loại quẻ (quái):
1/Quẻ đơn: gồm 8 quẻ (bát quái), mỗi quẻ có ba hào (hào là các
vạch liền-hào dương; hoặc đứt giữa-hào âm), thứ tự đếm từ dưới
lên.
Tên các quẻ thứ tự theo tiên thiên : Càn, đoài, Ly, Chấn, Tốn,
khảm, Cấn, Khôn.
2/Quả kép: gồm 64 quẻ , mỗi quẻ gồm hai quẻ đơn chồng lên nhau,
nếu hai quẻ chồng lên giống nhau gọi là trùng quái (quẻ
thuần).
Quẻ nằm dưới gọi là nội quái, có 3 hào gồm: sơ, nhị, tam. Quẻ nằm
trên gọi là ngoại quái cũng có 3 hào là tứ, ngủ, lục.
III- Đại ý các quẻ:
Mỗi quẻ gồm 6 hào, đếm từ dưới lên trên, mỗi hào là một ý nghĩa sự
việc của triều chính, của đức tính người quân tử - hay tiểu nhân, dùng để đối
nhân xử thế hoặc lập kế hoạch cho nhà nước các vương triều, do Thoán viết và Chu
Hy chú giải, sau đó Đức Khổng Tử san định lại, riêng bài này chỉ là
toát yếu nên soạn giả lập lại trình tự có khác đôi chút để cho các bạn dễ theo
dõi và học thuộc lòng tên các quẻ.
1- Bát thuần khôn: thuận lợi, đi phía Tây Nam gặp bạn, đi
phía Đông Bắc mất bạn, điều tốt.
2- Bát thuần càn: cứng, tốt, mạnh mẻ, đầy đủ, thông suốt, có lợi,
trong sạch.
3- Bát thuần ly: sáng, đẹp, lệ thuộc, hanh thông, nuôi trâu cái
thì tốt.
4- Bát thuần đoài: vui vẻ, hanh thông, chính thì có
lợi.
5- Bát thuần tốn: vào, thuận, hanh thông, ra mắt đại nhân thì có
lợi.
6- Bát thuần khảm: Kềm hảm, hiểm trở, nhưng không mất lòng
tin.
7- Bát thuần chấn: chấn động, sấm nổ thời hanh
thông.
8- Bát thuần cấn: ngăn cản cái đáng ngăn, ngăn cản đúng
chỗ.
*Trên là
tám quẻ thượng và hạ quái giống nhau. Còn lại ta đọc tượng hình quái trên
(ngoại) rồi tượng hình quái dưới (nội), sau đó là tên.
9- Địa phong thăng: tiến lên, hanh thông, ra mắt đại
nhân đừng lo, đi về hướng Nam có lợi.
10- Địa lôi phục: phục hồi, trở lại, bảy ngày trở lại, tiến tới
thì lợi.
11- Địa trạch lâm: lâm vào, tìm nhau, hanh thông, chính thì
lợi.
12- Địa thiên thái: thông thái, bỏ nhỏ lấy lớn, tốt, hanh
thông.
13- Địa hoả minh di: bị thương, ánh sáng bị tổn hại, chịu gian
nan.
14- Địa thuỷ sư: nhiều, dân lính đông đảo, lấy lòng nhiều người
thì lợi.
15- Địa sơn khiêm: khiêm nhượng, nhúng nhường thì hanh thông, quân
tử trọn vẹn.
16- Thiên phong cấu: gặp gở, cấu kết, con gái mạnh hơn chớ hỏi
cưới.
17- Thiên sơn độn: lui ẩn, trốn đi thì hanh thông, tiểu nhân đắc
chí.
18- Thiên địa bỉ: bế tắt, không hợp thời, quân tử bất lợi, lớn đi
nhỏ lại.
19- Thiên thuỷ tụng: bàn luận, kiện cáo, ra mắt đại nhân có lợi,
vượt sông lớn bất lợi.
20- Thiên hoả đồng nhân: thân thiện, cùng ở với người, quân tử
lợi, vượt sông lớn lợi.
21- Thiên lôi vô vọng: không càn bậy thì tốt, lợi ở sự chính, tiến
đi bất lợi.
22- Thiên trạch lý: lễ phép, từ mềm đến cứng, đạp đuôi hổ chẳng
sao, hanh thông.
23- Hoả trạch khuê: ở ngoài, trái với khác nhau, ở việc nhỏ thì
tốt.
24- Hoả lôi phệ hạp: ăn, cắn được hanh thông, cắn để trừng phạt
thì tốt.
25- Hoả sơn lữ: lữ khách, đi xa nhà chính đáng thì
tốt.
26- Hoả phong đỉnh: cái lư, cái đỉnh, cái vạc nấuu tốt
đẹp.
27- Hoả thuỷ vị tế: không hợp, mất, chưa xong, bất
lợi.
28- Hoả địa tấn: tiến, ban ngày được tiếp ba lần, khanh hầu dùng
ngựa nhiều.
29- Hoả thiên đại hữu: nhiều người, có lớn thì hanh
thông.
30- Thuỷ trạch tiết: tiết giảm chừng mực, dè dặt khổ sở không lấy
làm bền được.
31- Thuỷ lôi truân: truân chuyên hiểm trở, dựng tước hầu thì có
lợi.
32- Thuỷ hoả ký tế: hợp nhau, đã định rồi, đã xong
rồi.
33- Thuỷ sơn kiển: tai nạn, què, chột, lợi ở Tây
Nam,
bất lợi ở Đông Bắc.
34- Thuỷ phong tỉnh: giếng nước, đổi nhà (ấp) không đổi
giếng.
35- Thuỷ thiên nhu: nhu cầu, thuận, chờ đợi, tiến qua sông lớn thì
lợi.
36- Thuỷ địa tỵ: thân mật, gần gủi tốt, đoán lần thứ nhì giống như
lần trước.
37- Thuỷ trạch khổn: gian nan, khốn cùng, có nói chẳng
tin.
38- Trạch địa tụy: tụ họp hanh thông, vua đến nhà miếu, ra mắt đại
nhân được lợi.
39- Trạch sơn hàm: mau chóng, cảm xúc, hàm chứa, giao cảm, lấy con
gái thì tốt.
40- Trạch phong đại quá: nhiều quá, lớn đến nổi cái cột cong lại,
tiến thì lợi, hanh thông.
41- Trạch lôi tuỳ: thuận theo, theo nhau mà hanh thông, ở điều
chính có lợi.
42- Trạch thiên quải: quả quyết, có lòng thành kêu gọi mọi
người.
43- Trạch hoả cách: cải cách, thay đổi, lúc đầu chưa ai tin, lúc
sau mới tin.
44- Phong thiên tiểu súc: ít quá, chứa ít thì hanh thông, mây kín
không mưa, dời đô về Tây.
45- Phong hoả gia nhân: ở trong, người nhà, như con gái trinh
chính thì lợi.
46- Phong thuỷ hoán: ngừng lại, lìa xa, vua đến nhà miếu vượt qua
sông thì lợi.
47- Phong địa quan: quan sát, đi cùng với lòng tinkhông vụ lợi,
đáng kính.
48- Phong trạch trung phu: tin cậy, thông cảm được mọi vạn vật,
qua được hiểm nghèo.
49- Phong sơn tiệm: tiến đến dần dần, con gái về nhà chồng thì
tốt.
50- Phong lôi ích: ích lợi, tiến qua sông lớn thì
lợi.
51- Lôi địa dự: vui vẻ, sáng, dựng tước hầu ra quân thì
lợi.
52- Lôi thuỷ giải: tiêu tán, gải tán, cởi mở, trở về cái cũ, đi
sớm về sớm thì tốt.
53- Lôi phong hằng: hằng còn, không đổi, thường lâu thì có
lợi.
54- Lôi sơn tiểu quá: ít quá, làm việc nhỏ thì tốt, việc lớn thất
bại.
55- Lôi trạch quy muội: cô em bé khập khểnh về nhà chồng, tiến đi
thì xấu, bất lợi.
56- Lôi hoả phong: nhiều, thịnh vượng,, vương triều cục thịnh,
trung hiếu vẹn toàn.
57- Lôi thiên đại tráng: chí khí lớn, mạnh, chính thì
tốt.
58- Sơn hoả bí: trang sức thì hanh thông, nên tiến nhiều được chút
lợi.
59- Sơn thiên đại súc: tụ nhiều, chứa nhiều, vượt qua sông lớn thì
lợi.
60- Sơn trạch tổn: hao tốn, rút bớt, rút của dân phụng sự cho
vua.
61- Sơn lôi di: nuôi dưỡng điều chính thì tốt, xem cách nuôi để tự
nuôi mình.
62- Sơn phong cổ: có sự việc, đổ nát rồi có việc mới tốt, vượt
sông lớn có lợi, trước sau ba ngày.
63- Sơn thuỷ mông: mê muội, mờ mịt, non trẻ ngây thơ thì hanh
thông.
64- Sơn địa bác: bài bác, mục nát, vở lẽ, tiến đi thì không
lợi..
B- Hậu
thiên:
Do dùng nghĩa tiên thiên khi lập các kế hoạch quá khó
vì nhuộm đầy triết học nho gia, giới bình dân tìm cách diễn giải dễ
hiểu hơn và được đa số công chúng Trung Hoa công nhận và tán thành, ý nghĩa hậu
thiên ra đời khoảng cuối thời mạt Đường sang sơ Tống, thứ tự của bát quái có sự
thay đổi vị trí như sau : Càn, Khảm, Cấn, Chấn , Tốn, Ly , Khôn, Đoài.
Điều thú vị là gán ngũ hành sinh khắc và an vào các quẻ một số thuộc tính
gọi là “sao” dùng để đoán vận hạn tuổi tác cho một nhân vật nào
đó.
Tiên thiên và hậu thiên không có sự khác biệt, nó giống như
nhau, tiên thiên được ví như đi quan sát từ nhà trên xuống nhà
dưới, hậu thiên quan sát từ nhà dưới đi lên nhà trên, thực tế chỉ có một cái nhà
là kinh dịch.
Trong bài viết nầy chủ yếu để các bạn giải trí, không hề có hàm ý
mời các bạn xem để… tham khảo và hành nghề “toán
số”.
PHẦN
II:Ngũ hành- động hào- âm dương và can
chi
Theo tây phương vật chất gồm có tứ đại là: đất, nước, lửa, không
khí. Bốn yếu tố nầy giao nhau tuỳ theo tỷ lệ phần trăm nào đó thành ra các
nguyên tố… nhưng riêng ngủ hành thì chưa có sách nào đề cập là ngủ hành cần bao
nhiêu phần trăm để tạo thành vật chất, chỉ có đông dược thì có khả năng biết
loại nào vị nào, bao nhiêu cân lượng…
I- Ngũ hành: Như đã
biết: thuỷ sinh mộc, mộc sinh hoả, hoả sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thuỷ…
đây là sinh theo chiều thuận hay còn gọi là sinh “xuất”, nếu ngược lại là sinh
“nhập” . Trường hợp khắc cũng thế, có khắc xuất và khắc nhập :
* Các thuật ngữ:
-Sinh nhập giống như người nuôi ta gọi là Vượng, Tướng (hoặc cùng
hành).
-Sinh xuất giống như ta nuôi người gọi là
Hưu
-Khắc nhập giống như người giết ta gọi là
Tử
-Khắc xuất giống như ta giết người gọi là
Tù
Bảng 1: ngũ hành kết hợp với can chi và 8
quẻ:
II- Động hào: Trong
kinh dịch viết : “Cùng tắc biến, biến tắc thông”, nên trong quẻ tiên thiên khi
tiên liệu kết quả thì chỉ có 1 hào động; có nghĩa là chỉ có một hào dương biến
thành hào âm hoặc ngược lại. Lúc này quẻ sẽ thay đổi thành quẻ biến kèm theo
quái nghĩa thay đổi theo, hoặc nói cách khác là tình huống sẽ xảy ra cách nào đó
và đạt hiệu quả (kinh tế) sau khi kế hoạch thực hiện được sau một thời gian.
Trong hậu thiên thì có từ 1 đến 6 hào sẽ động và quái nghĩa cũng
thay đổi từ quẻ chính là nguyên nhân sẽ đạt kết quả ở quẻ biến. Cách tìm hào
động thì ngoài các cụ thâm nho đọc được nguyên tác, riêng các bạn và tôi thì
phải xem đáp án bằng phú nôm của các cụ Lê Quý Đôn, Huỳnh Kim, Phan Châu Trinh…
đã tái bản nhiều lần.
III- Thiên can và địa chi: Để tính
thời gian, người ta dùng 10 can ghép với 12 chi, mỗi chi là 1 giờ Đông Á ( bằng
02 tiếng đồng hồ ). Thí dụ : giờ Tí được tính từ 11 giờ khuya đến 01 giờ sáng,
giờ Sửu từ 01 giờ sáng đếm 03 giờ sáng v.v....
*10 can gồm: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm,
Quý.
* 12 chi gồm: Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu,
Tuất Hợi.
Cách ghép: bắt đầu ghép Giáp với Tí, tương tự có Ất Sửu, Bính
Dần….. đến Quý Hợi cả thảy được 60 vị, đến vị thứ 61 trở lại Giáp Tí tuần hoàn
lần nữa.
Thật là thú vị vì bằng mắt thường người ta chỉ thấy được 5 hành
tinh: Thuỷ tinh, Kim tinh, Hoả tinh, Thổ tinh, Mộc tinh. Trong đó Mộc tinh là
hành tinh lớn nhất có chu kỳ 1 năm của hành tinh này gần bằng 60 năm của địa
cầu, tương đương với một đời người của chúng ta!
IV- Địa bàn: Dưới cách nhìn
của người cổ, mặt đất luôn cố định gọi là địa bàn, con người sống trên mặt đất
nên bàn tay trái (để ngữa ra) cũng có địa bàn. An 12 chi vào bàn tay trái bắt
đầu từ khớp động cuối ngón áp út ( giáp với lòng bàn tay) là cung Tí chuyển dần
theo chiều kim đồng hồ (chiều thuận , thuận hành) đến cuối ngón trỏ là cung Dần,
chuyển dọc lên theo các khớp và đầu các ngón tay, đến ngón út và
chuyển xuống chân ngón út là cung Hợi. Như vậy ta rót vào mỗi cung một vị “Thần”
tên là “Tí” đến “Hợi”. Thế là ta đã có địa bàn trong bàn tay rồi đấy! Khi tính
toán, thường dùng ngón cái bấm vào các cung địa bàn để an các tính
chất.
Vì
thường bấm vào tay hay dễ lẫn, người ta ghi lại trên giấy cho dễ nhìn, cách
trình bày tương tự như ở bàn tay trái, mỗi ô (cung) thường để rộng dùng an các
sao vào:
- Cung dương : Tí, Dần, Thìn,
Ngọ , Thân, Tuất,
- - Cung âm: Sửu,
Mão, Tỵ, Mùi, Dậu,
Hợi.
1/- Khắc, Xung: Nhìn vào hình
trên, ta vẽ những đường thẳng qua tâm địa bàn xuyên qua các cung thì thấy rõ sự
đối ứng của chúng. Đây là hai thần chi khắc nhau trực tiếp ( đối xung, chính
xung), thành 6 cặp:
Tí
khắc Ngọ ( thủy khắc hỏa)
Mão
khắc Dậu ( mộc khắc kim)
Tương
tự 4 cặp còn lại : Dần- Thân, Tỵ hợi, Thìn Tuất, Sửu Mùi.
* Khắc theo nhóm: Nếu lập nhóm 4
thần chi thì ta có 3 nhóm khắc nhau:
a/
Dần Thân Tỵ Hợi
b/
Thìn Tuất Sửu Mùi
c/ Tý
Ngọ Mão Dậu
2/ Hợp:
a/ Nhị hợp: Nhìn vào trục
đứng xuyên qua tâm địa bàn ta có 6 cặp nhị hợp
*
Ngọ- Mùi
* Tỵ-
Thân
*
Thìn- Dậu
*
Mão-Tuất
*
Dần- Hợi
*
Sửu- Tý
b/ Tam hợp: Ba thần chi
hợp nhau thành 4 cặp tam hợp:
Thân-
Tí - Thìn ( gọi là tam thủy vì Tí thuộc thủy)
Tỵ-
Dậu - Sửu ( gọi là tam hợp kim vì Dậu thuộc kim)
Mão –
Mùi – Hợi ( gọi là tam hợp thổ vì Mùi thuộc thổ)
3/ Hại: Nhìn vào địa
bàn ta vẽ đường thẳng đứng xuyên qua các cung sẽ có 6 cặp hại
nhau:
Thìn-
Mão; Tỵ -Dần; Ngọ- Sửu; Mùi- Tí; Thân- Hợi; Dậu –
Tuất.
-Tại
sao hại nhau ? Thật là không ổn, nếu xét về ngủ hành thì chưa chắc đã hại nhau,
Xin báo cáo với các bạn, điều này “Thánh” chưa phán nên các bạn tạm thời tự tìm
câu giải đáp!
* Tướng và tiết: Một năm chia
ra 12 tháng, mỗi tháng có 2 tiết khí, giữa hai tiết khí là trung khí, năm nhuận
thì người ta thêm tháng nhuận vào tháng nào có trung khí kéo dài nhất. Theo kinh
dịch và tử vi thì nguyệt kiến (tháng) đi thuận theo chiều kim đồng hồ. Thí dụ
tháng giêng tại cung dần, thuận hành đến tháng chạp tại cung sửu. Trong lục nhâm
thì “nguyệt tướng” (tướng tháng ) đi nghịch giống như chiều lượng
giác (nghịch hành): Tháng giêng tướng Hợi (tại cung hợi) , nghịch hành đến tháng
chạp là tướng Tí.
Bảng 2: Tướng và tiết:
V- Thiên bàn: PHẦN NẦY PHỨC TẠP... PHANTRAN SẼ NÓI RÕ TRONG PHẦN LỤC NHÂM ĐẠI ĐỘN ./.
|
Thứ Sáu, 23 tháng 8, 2013
Dịch lý nhập môn
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét