-->

Chủ Nhật, 25 tháng 8, 2013

Lý học đông phương (suite)


..

PHẦN III – Thiên văn

Trước khi vào câu chuyện hôm nay , thiết nghĩ các bạn cũng cần biết một số quan niệm và thuật ngữ của thiên văn cổ phương tây cũng như phương đông như sau:
-Trái đất là tâm vũ trụ, cố định, tinh tú đều xoay quanh trái đất . (Hệ địa tâm)
* Đường hoàng đạo: là đường đi biểu kiến của mặt trời (sao Thái Dương) và mặt trăng (sao Thái Âm) trên bầu trời. Mặt phẳng hoàng đạo được xác định bởi tâm trái đất và đường hoàng đạo.
* Mặt phẳng hoàng đạo chia bầu trời thành hai bán thiên cầu, và có hai cực là thiên cực bắc và thiên cực nam.
Xác định thiên cực bắc là điểm gần trùng với sao Bắc Đẩu (còn gọi là sao Tử Vi) của chòm Bắc Đẩu nhỏ (Tiểu hùng tinh - Gấu nhỏ) . Kéo đường thẳng theo trục đứng của chòm Nam Tào ở phía Nam cắt đường chân trời (cũng ở phía nam) là điểm gần trùng với thiên cực nam.
* Có 5 hành tinh đi trên đường hoàng đạo nhìn thấy bằng mắt thường, dĩ nhiên cũng có một số hành tinh đi lệch một góc vài độ so với đường hoàng đạo, muốn nhìn thấy rõ được chúng phải đợi sang thời “Tống” mới có kính đeo mắt và kính thiên văn do sự giao lưu giữa đông và tây qua đường tơ lụa hoặc đường biển - (lúc nầy chiếc gương đồng soi mặt của Trung Hoa đã bị lỗi thời).Thủ đô Tràng An tràn ngập khoảng gần 10.000 sinh viên các nước Tây Á đến học tập khoa học kỹ thuật của Trung Hoa, việc du học nầy chấm dứt sau khi đạo quân Mông Cổ quyết chí liều chết để nam tiến mặc dầu Tống triều đã dùng tất cả binh mã và vũ khí như súng thần công và địa lôi nhưng cuối cùng trường thành cũng đã bị vỡ một đoạn nơi xung yếu ….
*Mười hai chòm sao trên hoàng đạo được phương tây an vào (cho thêm) một số tính chất để xem tuổi (thực ra xem tháng dương lịch!). Mỗi chòm sao cách nhau khoảng 30 độ được tượng hình bằng cách khoanh vùng trời cho giống “cái con” gì đó, cũng có vài chòm sao lệch khỏi đường hoàng đạo… Thử học thuộc lòng câu thần chú theo thứ tự: như sau:
“ Cừu; Bình; Cá; Dê; Trâu; Nam; Bắc; Sư; Nữ; Cân; Hổ, Mã”
Các bạn sẽ thuộc ngay tên 12 chòm sao (nhìn bằng mắt thường) :
1/- Cừu : Dương Cưu, Miên dương, Ma Kết, giống con cừu.
2/- Bình : Bảo Bình, giống chiếc bình cổ Hy Lạp.
3/- Cá : Song Ngư, giống hai con cá, (tôi chỉ thấy đầu hai con cá như mũi dao găm).
4/- Dê: Sơn Dương, Bạch Dương, giống con dê.
5/- Trâu : Kim Ngưu , giống giống con trâu.
6/- Nam: Song Nam, Song Tử, giống hai thanh niên - [tôi chỉ thấy giống số hai La Mã (II)].
7/- Bắc : Bắc Giải, Cự Giải, giống con cua. (bằng mắt thường tôi chỉ nhìn thấy hai con mắt - không thấy yếm, càng, ngoe!).
8/- Sư: Hải Sư , Sư Tử, giống con mèo xồm.
9/- Nữ: Xử nữ, giống cô gái còn trinh tiết? -(tôi không sao giải thích được!).
10/- Cân: Thiên Cân- Thiên Xứng, giống cái cân - (tôi chỉ thấy có hai ngôi sao đối xứng qua đường hoàng đạo).
11/- Hổ: Hổ Cáp; Thiên Hát, giống cái cày hoặc con bọ cạp- (con nầy thì quá đẹp và rất rõ, có càng, mình, đuôi dài uốn cong và có cả cây kim để chích thuốc!).
12/- Mã : Nhân Mã; giống sư phụ của Hercule đang trương cái cung sắp bắn ai đó.
Muốn biết hôm nay thuộc tháng mấy dương lịch, người ta nhìn chòm sao nầy xuất hiện đi vào quỹ đạo của mặt trời sắp sửa lặn ở hướng Tây (thực sự bị ánh sáng mặt trời che lấp) là biết tháng mấy, Thí dụ chòm Bắc Giải đi theo mặt trời để lặn thì chính là tháng 7 dương lịch, tương tự tháng 8 dương lịch thì chòm Hải Sư lặn chung với mặt trời v.v…
* Tên gọi 12 chòm sao trên do chính người Trung Hoa dịch lại của phương tây vào thời Tống đến nay vẫn chưa nhất trí lắm. Riêng tên khoa học của các chòm nầy thì có nhiều bạn đã biết nên không đề cập đến, Khi muốn chỉ một ngôi sao nào đó, người ta đặt mã số cho sao này bằng chữ số (hoặc chữ Hy Lạp) thuộc chòm sao nào… nếu bạn muốn biết nhiều thêm về thiên văn tôi xin mách nhỏ : “ Bạn nên thi vào Đại học Sư Phạm, ở nơi nầy sẽ có vài chục tiết học Thiên văn đại cương để nghiên cứu trong 4 năm rưởi, còn các trường khác có dạy môn này hay không thì thú thật tôi không biết!”.

Thật buồn cười khi nghĩ lại thấy Đông phương và Tây phương gặp nhau ở chỗ trên mặt đất có chính quyền như thế nào thì ở âm phủ và thiên đình cũng tương tự… cũng có các cơ quan hành chính, quân sự, thần dân v.v…
Riêng thiên văn của Trung Hoa vào thời Tống đã bị ảnh hưởng của phương tây, nhưng các truyền thuyết về các “vị thần sao” thì phải nâng cấp thêm một ít cho được cập nhật, trong đó thì ngoài các vị sao vừa đi tuần trên hoàng đạo vừa phân công các chòm khác có nhiệm vụ tuần tra ở hai bán thiên cầu, tất cả binh tướng đều phải trực ban đầy đủ (12 ca trực) trên 12 cung thiên bàn gồm 28 vị sao:
-Phía Đông: Giốc, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, . ( chòm Thanh Long)
-Phía Bắc: Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích. (chòm Huyền Võ)
-Phía Tây: Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Tư, Sâm. (chòm Bạch Hổ)
-Phía Nam: Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn. (chòm Châu Tước).
I- So sánh thiên văn của đông và tây phương thời cổ:
Vào Thời bấy giờ, cả Đông và Tây phương đồng quan điểm con người là một tiểu vũ trụ, do đó tất cả các tinh tú đều có ảnh hưởng liên đới đến con người, Thiên văn học phương tây phát triển theo chiều hướng khoa học và chuyển dần từ hệ địa tâm sang nhật tâm, trong khi đó một bộ phận thần bí hoá chuyển hướng xem tuổi (tử vi) theo 12 cung hoàng đạo, dùng kính thiên văn xem hành tinh nào đi vào chòm sao nào mà phán quyết may rủi…
Thiên văn của đông phương cũng không kém, dùng các sao định vị tại thiên bàn-địa bàn, dùng để xem thiên tượng có ảnh hưởng gì đến quốc gia trong năm, dùng để lập tử vi, tìm cuộc địa lý, đoán số mệnh v.v… có phần ly kỳ hơn. Dĩ nhiên là sự an sao này cũng có quy luật âm dương, ngủ hành và theo phương pháp thống kê cổ điển của người Trung Hoa. Khách quan mà nhận xét thì tử vi của phương đông (Trung Hoa) có phần chính xác hơn nhiều, lý do phương tây chỉ thống kê tính chung chung đến tháng là hết, trong khi phương đông lập bảng thống kê tính đến cà năm, tháng ngày, giờ
Tôi có thử truy tìm so sánh xem 108 vị sao dùng cho tử vi của phương đông với bản sao đồ hiện đại xem có thật hay không? Qua nhiều năm dò tìm tôi đã nghiệm ra một số việc:
1-Có khoảng gần 40% là các sao trên bảng tử vi có thật, do cách gọi theo phương đông mà chúng ta chưa nhận ra. Tôi xin kể một số chòm sao sử dụng trong tử vi:
a/-Chòm Tử Vi và chòm Thiên Phủ : gồm 14 chính tinh (sao lớn), chòm Tử Vi gồm : TửVi, Thiên Cơ , Thái Dương (mặt trời), Vũ Khúc, Thiên Đồng, Thiên Lương; chòm Thiên Phủ gồm: Thiên Phủ, Thái Âm (mặt trăng), Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân, trong đó Tử Vi và Thiên Phủ luôn đối xứng với nhau qua trục dần thân, (viết đến đây sao cảm thấy giống Thiên Can Bắc Đẩu Trận của Kim Dung !), chòm nầy gắn liền với truyền thuyết “phản Trụ đầu Châu ”.
b/- Chòm Thái Tuế : gồm 12 sao- chịu ảnh hưởng triết học Nho giáo.
c/-Chòm Lộc Tồn, Bác Sĩ: gồm 13 sao- chịu ảnh hưởng Lão giáo.
d/- Chòm Trường Sinh: gồm 12 sao- chịu ảnh hưởng của Phật giáo.
* Riêng chòm “Kiến trong Lục Nhâm tôi vẫn còn lưỡng lự, gồm có: Kiến, Vượng, Thai, Một, Tù, Tử, Hưu, Phế, Cô, Hùng, Phúc, Lợi . Trong chòm nầy có 3 sao, một số còn lại tôi dò tìm trong sao đồ tương ứng chưa ra!
Các chòm sao khác xin các bạn tự nghiên cứu.
2-Một số sao không có thật trong sao đồ mà thực ra là các tính chất phụ thuộc, sở dĩ người Trung Hoa cho thêm vào là để cho đủ 12 vị rót vào để an sao vào địa bàn cho công bằng đối với 12 cung!
3-Tôi có thử dùng các trình máy tính để giải, thực ra chỉ là những nhận xét rời rạc và có khi vô cùng mâu thuẫn với thực tế. Có khoảng 40.000 lời giải của máy tính như thế không đâu vào đâu cả. Như thế giá trị thủ công của các “thầy- bà” vẫn còn được một số người ưa chuộng! Máy tính chẳng qua là an sao dùm cho đở nhọc.
4- Khi giải phải gom các sao và tính chất thành bộ chính chiếu (đối xung), bàng chiếu, tam hợp chiếu, nhị hợp chiếu, các lân cung hỗ trợ, tính chất gia giảm (lương y tỉnh dược) mà có phát huy được không? Tính chất “văn, võ” với các bộ sao như thế nào? (Nên nhớ là không dùng ngủ hành sinh khắc trong môn nầy!). Như vậy muốn tìm hiểu một cung thì phải sử dụng ít nhất ba cung liên quan chính chiếu và bàng chiếu.Trái lại với lục nhâm chỉ xem tam hợp cung (chỉ xem thêm 2 cung bàng chiếu).
5- Có một số khuyết điểm của môn nầy là chưa giải đáp thoả mãn được một số yêu cầu :
-Số con, số anh chị em, cha mẹ, đất đai kết phát, trường hợp cùng múi giờ, hiện tượng song sinh …
6- Xét một bản tử vi có lời giải thường gặp là:
-Một bản tử vi đã an đầy đủ 108 vị sao
-Một quyển tập 100 trang tha hồ cho các “thầy- bà” nói dóc:
* Chỗ nào không thuộc phú giải của Trần Đoàn (hoặc có khi không hiểu, dịch bậy bạ hết sức) thì dùng “Phú nôm cốt tuỷ” của cụ Lê Quý Đôn (có khi tìm kiếm không ra), lúc đó “thầy- bà chửa cháy” bằng cách áp dụng ngủ hành sinh khắc các sao, các quẻ dịch để lấm láp cho qua…. Thực chất là người giải đoán tử vi chỉ dùng phú của Trần Đoàn mà thôi, ngủ hành và dịch lý do người Trung Hoa đã mất chính thư nên họ chuyển sang cách nầy để giải tử bình!
* Một bản tử vi giải đoán có giá trị thường người ta bọc da có đề tựa rất đẹp. bên trong có bản an sao và lời giải hoàn toàn theo phú Trần Đoàn, kèm theo phú nôm của Việt Nam ( Phú nôm cốt tuỷ của Lê Quý Đôn), lời giải cho từng cung, vận hạn, mỗi cung đoạn như vậy có một bài thơ vịnh bằng thất ngôn tứ tuyệt (hoặc bát cú) để luận thêm. Tôi cũng đã đọc được vài bản văn loại nầy, nếu không kể phần huyền hoặc thì đây là văn bản rất nên thơ, giá trị, có khi các cụ khôi hài đùa trong bài thơ vịnh mà phải đến đời sau con cháu mới biết nhận ra!
* Việc giải đoán hiệu quả thường các cụ nhận xem cho đương số (còn gọi là đương sự) trong thời gian rất lâu, tôi có hỏi tại sao không làm nhanh các cụ bảo đây cũng là loại “Lương y tỉnh dược”, phải trầm ngâm suy nghĩ cân lượng cho đủ 108 vị thuốc sao cho chính xác trước khi xuất khỏi dược phòng giao cho bệnh nhân!?
Bản tử vi mà các bạn thường gặp chỉ là các sao an trên địa bàn. Một cung trống ở chính giữa đề tên họ, ngày, tháng, giờ sanh chính là nhân bàn. Đường biên giữa nhân bàn và địa bàn là thiên bàn.
Muốn lập kế hoạch đời người theo hàng tháng, hàng năm….. thì các sao phải an lại theo thiên bàn, việc này rất khó nhìn và khó nhớ do đó phải sử dụng nhiều bản phụ, đây là điểm yếu của “các thầy - bà” mới vào nghề còn non tay ấn….
II- Sự truyền bá các lý học đông phương về Việt Nam:
Bình quân khoảng 300 năm thì một vương triều của Trung Hoa bị suy tàn (kể cả Việt Nam cũng tương tự!), các quý tộc Lưu Hán, Lý Đường, Triệu Tống bỏ chạy trốn về về “An Nam” ẩn náu chờ ngày phục nghiệp, dĩ nhiên họ được sự che chở của vua chúa Việt Nam, họ truyền lại các sách vở mang theo về nam, các thư liệu nầy gọi là “chính thư”, các vương triều Trung Hoa dùng các chính thư này để tuyển chọn nhân tài và cả vua chúa Việt Nam cũng “noi theo” như vậy!
Một số quý tộc Trung Hoa ở Việt Nam cũng dùng “chính thư” này đã giúp cho Nam triều và có nhiều công sức, có người được phong tước “Công”. Các thư liệu về sau cũng tiếp tục truyền về Việt Nam nhưng có sự khác biệt, gần như mâu thuẫn với chính thư, bị giới sĩ phu Việt Nam chê là “man thư” (sách dỏm) không sử dụng.
Từ đời Minh Thái tổ đến Minh Thành tổ, các vua này nghiêm cấm truyền các học thuật cho du học sinh các nước vì xem họ là các gián điệp, một loại con ngựa thành Troa chờ ngày xâm chiếm Trung Hoa, họ quyết tâm gia cố các tuyến trường thành, sau 20 năm chuẩn bị, họ dồn đại quân vượt trường thành xuyên qua đại mạc để rửa hận, bao vây nước Mông Cổ và thẳng tay giết hơn ¾ dân số để trừ hậu hoạ, số sống sót mở đường máu chạy trốn đến tận Nga La Tư gởi biểu về xin hàng! Nhà Đại Minh bắt buộc họ phải từ bỏ quốc hiệu Đại Nguyên, xưng Thác Đát và triều cống như cũ. Nhưng đâu ngờ mối hiểm hoạ lại nằm trong trường thành - nước Kim cũ dần dần phục hồi cường thịnh tự xưng là Đại Thanh dẫn quân tiến về Yên Kinh!
Các học thuật được ghi lại trong sách gồm rất nhiều đề tài, ở đây tôi không liệt kê tất cả, có một số các bạn đã trao đổi trực tiếp với tôi về một vấn đề chính là tử vi. Liệu tử vi đông phương có chính xác trong việc lập kế hoạch cuộc đời không ?
Tôi xin thưa rằng việc lập kế hoạch có đạt được 40% là quá hay. Ai nói đạt hơn nữa là láo khoét, vì đây chỉ là phương pháp thống kê liên thông giữa tinh tú (thiên), vận nước (địa), đời người (nhân), nên chính xác phải nói là 33,33%.

PHẦN IV - Địa lý thời trung cổ
Lý học đông phương về địa lý có khác biệt với tây phương ở chỗ họ chọn đồi cao, thiết kế, ánh sáng, hướng gió…sự phòng thủ, sự lưu thông nước sinh hoạt… và dần dần chuyển hệ sang khảo sát và khai thác sử dụng các quặng mỏ… Riêng đông phương, thì ngoài các sử dụng trên có thêm ý nghĩa là tạo sự nghiệp lâu dài cho các vương triều, giòng họ, nhân dân…
Từ thời Cao Biền đã có những cuộc khảo sát địa lý chủ yếu là yểm các long mạch không để Nam quốc không có cơ hội phát triển thế lực (?). Tuy nhiên theo các cụ thì qua hàng ngàn năm các trấn yếm của Cao Biền đã hết thời hiệu và hiện nay “nước Nam” đang phục hưng …
Theo các sách vở địa lý cổ thì nơi kết phát chính là nơi “để đất ” tuỳ theo âm dương hoặc lớn nhỏ mà sử dụng các công việc như:
a/-Nếu kết phát tại một điểm nhỏ thì dùng làm âm phần (mộ tổ).
b/-Nếu kết phát lớn thì dùng làm dương cơ (thành quách, châu, quận, huyện…).
Thế đất đẹp thì phải có đủ tay long và tay hổ chầu ở hai bên tả hữu , trước có : án (bàn bureau), chiêng, trống (?), nghiên, bút , minh đường : ruộng, ao(?), đàng sau phải có huyền võ: núi đồi, cây cối rậm rạp (?), dụng cụ là tấm hoạ đồ đã sơn vẽ đậm lợt theo các độ cao, một tróc long bàn, một số cọc nhọn, dây căng, một kính lúp, v.v…. Tuỳ theo hình thế đất mà phát to hay nhỏ, có “sát” hay không, hay là đất “bình dương” (đất lành)….
Một quyển sách các cụ thường hay đề cập đến là “Huyền võ cấm thư”. Đó là một quyển sách cấm thời Đường luận về các cuộc địa lý, có đồ hình minh hoạ, các cụ cho biết đây là một bộ đầy đủ tất cả các trang (chép và vẽ bằng tay trên giấy bản), trong khi tại Quốc Gia Thư Viện (Sài Gòn cũ ) có một bộ như vậy (mộc bản) nhưng thiếu mất vài trang. Tôi cũng có nhiều lần đi thực địa với các cụ để cùng tróc long điểm huyệt. Có cụ vừa đi vừa ngâm phú của Tả Ao: “ Khum khum gọng vó chẳng nó thì ai; Thè lè lưỡi trai chẳng ai thì nó?”. Tôi có thấy mu rùa, ốc hả miệng thè lưỡi nào đâu? Chỉ là một số gò đống lù lù…. Một cụ khác chỉ : “Xem con long nó chạy kìa…!?”. Tôi cố nhìn nhưng không thấy con long (rồng) nào cả, chỉ thấy bụi nước bắn bay mù theo suối như làn sương… đường đi bộ thì gồ ghề tôi vô ý đến nổi bị trượt té, tay tôi cố giữ “tróc long bàn” không để bị hỏng, còn chân tôi bị tróc “lông” và trầy xước !!! …. Đã thế còn bị cụ quở: “Đồ thằng nhỏ … con mắt để trên chân mày!”
Chuyện buồn cười là khi xưa các cụ đã chọn được đất gần quốc lộ 01 gần Thủ Đức, có hơn 100 mộ táng vào đây cũng là thân tộc các đời trước của tôi, nhu cầu mở rộng thành xa lộ Sài Gòn – Biên Hòa, cả khu vực này phải di dời, các cụ thu gom từng bộ hài cốt vào tiểu sành sẽ tìm đất khác táng. Ba tôi lúc còn sống ổng hay nói : “Tiên tích đức hậu tầm long đem gởi vào chùa cho xong”. Việc xãy ra như thế ông tôi nói “Có đức mặc sức mà ăn, không đức hốt ….. mà ăn” làm cả nhà cười ầm.
Thế rồi nguyên cuộc đất như thế bị máy ủi đứt hết cả long mạch và cho đổ nhào xuống hố. Các cụ trong tiểu sành lần lượt về quê cũ ở Quảng Nam, gởi theo hai đợt ghe bầu về được cố quận an toàn, chuyến thứ ba lật úp xuống biển (cù lao Chàm), may là không ai chết!
Thưa các bạn!
Lý học đông phương cũng có quy luật vận động, nhưng rất tiếc đã bị gán ghép nhiều tính chất kỳ bí khó tin, tuy nhiên khi ta đã hiểu các quy luật trên rồi thì không có gì là huyền hoặc nữa, việc tin hay không để hậu xét, chủ yếu là vui xem và giết thì giờ, trong cách diễn đạt của tôi thì hạn hẹp như ếch nhái ngồi đáy giếng, riêng các cụ thì đang cùng nhau uống trà trên … nóc tủ, tôi cũng chẳng biết nói gì hơn, nếu có điều chi không phải xin các bạn niệm tình tha thứ!
*******************************************************
*

     
    

1 nhận xét: